Mặc dù yếu tố kích hoạt trượt lở chính là mưa, nhưng sau khi dừng mưa, độ ổn định của các sườn dốc vẫn còn rất thấp nên vẫn có thể xảy ra trượt lở bất cứ lúc nào. Thậm chí có nhiều trường hợp khi mưa tạnh, thời tiết nắng sau vài ngày nhưng vẫn xảy ra trượt lở đất đá do nền đất chưa được ổn định.
Do vậy chính quyền các cấp địa phương, đặc biệt là người dân cần đặc biệt chú ý, tránh chủ quan về nguy cơ xảy ra trượt lở đất đá khi kết thúc đợt mưa.
Đó là cảnh báo của Viện trưởng Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản (Bộ Tài nguyên và Môi trường) Trịnh Hải Sơn - sau khi các tỉnh miền Bắc vừa chịu tổn thất nặng nề sau hoàn lưu bão số 3 gây ra nhiều trận lũ lớn và sạt lở đất nghiêm trọng tại các tỉnh các tỉnh như Lào Cai, Yên Bái, Cao Bằng...
Yếu tố kích hoạt trượt lở, lũ quét
- Đầu tiên xin ông cho biết nguyên nhân dẫn đến những vụ sạt lở gần đây tại các địa phương, trong đó có các tỉnh Lào Cai, Cao Bằng, Yên Bái?
Viện trưởng Trịnh Hải Sơn: Nguyên nhân khiến các địa phương trên, đặc biệt là các tỉnh Yên Bái, Lào Cai trở thành “điểm nóng” sạt lở, lũ quét là do hội tụ các yếu tố địa hình, địa chất, cộng với sự kích hoạt mạnh do mưa từ hoàn lưu bão Yagi.
Yên Bái, Lào Cai nằm trên các đứt gãy lớn (hiện tượng địa chất liên quan đến quá trình kiến tạo vỏ trái đất) như các đứt gãy sông Hồng, Sông Đà, sông Mã… Trong đó hệ thống đứt gãy sông Hồng dọc theo Lào Cai, Yên Bái là đứt gãy lớn, kéo dài hàng nghìn km, chiều ngang có thể rộng 5-10 km, được hình thành hàng chục triệu năm, tái hoạt động nhiều lần. Các đứt gãy khiến nền đất bị nứt nẻ, dập vỡ, tạo điều kiện cho nước thấm, mềm, bở ra nhanh.
Địa hình của các tỉnh trên đa phần là núi đá có lớp phong hóa dày, ít rắn chắc và độ dốc lớn, gây nguy cơ trượt lở cao. Ngoài Lào Cai, Yên Bái, các tỉnh lân cận vùng như Sơn La, Lai Châu cũng có tính chất địa hình tương tự.
Bên cạnh yếu tố địa chất, địa hình thì yếu tố lượng mưa và những cơn mưa sau bão đã kích hoạt tai biến thiên nhiên như trượt lở, lũ quét.
Mặt khác thời tiết chuyển từ hiện tượng El Nino sang La Nina, khiến bão trực tiếp theo hướng từ ngoài Biển vào miền Bắc Việt Nam, gây mưa lớn và kéo dài nhiều ngày. Thực tế thời gian qua cho thấy khu vực các tỉnh miền núi phía Bắc đã xảy ra mưa với cường độ lớn, kéo dài nhiều ngày, nhiều khu vực đã xảy ra lũ, lụt, làm cho phần đất đá trên các sườn dốc đã đạt đến trạng thái bão hòa gây ra trượt lở đất đá tại nhiều nơi.
Yếu tố kích hoạt sạt lở đất quan trọng nhất là do đất bị bão hòa nước khi lượng mưa quá lớn hoặc có lượng mưa tích lũy dài ngày, bởi đất là lớp trên cùng của vỏ trái đất và được tạo ra từ vật chất đá gốc tại chỗ hoặc từ nơi khác chuyển đến. Dưới lớp đất là đá gốc, chiều dày của đất phụ thuộc vào điều kiện khí hậu, địa hình...
Độ bão hòa nước của đất phụ thuộc vào tính chất của đất như lỗ rỗng đất, độ gắn kết đất. Khi mất độ gắn kết, đất sẽ sạt lở theo một độ dốc, sườn dốc. Thông thường khi đất bão hòa thì độ gắn kết của đất rất kém, nước sẽ bị nhão ra thành bùn lỏng và thường xảy ra trượt lở đất, lũ quét.
Nhìn chung, các trận lũ quét, lũ bùn đá xảy ra tại các vùng núi, trung du Việt Nam hầu như đều có liên quan đến trượt lở đất đá.
Vụ lũ quét ở thôn Làng Nủ (tỉnh Lào Cai) vừa qua giống với dạng lũ bùn đá, mặc dù nơi này nằm ở thung lũng (tương đối bằng phẳng), có nguy cơ trượt lở thấp, tuy nhiên khu vực thượng nguồn suối ở núi Voi (phía thượng nguồn khe suối) được đánh giá có nguy cơ cao. Do đó khi xảy ra trượt lở, lũ bùn đá trên thượng nguồn đổ xuống, hạ nguồn lưu vực sẽ chịu hậu quả.
Sau mưa, sạt lở vẫn có thể xảy ra
- Với sự phát triển của khoa học công nghệ và thông tin, dự báo thời tiết ngày càng chi tiết hơn, thậm chí nhiều hiện tượng thiên nhiên được dự báo từ rất sớm. Vậy với trượt lở đất đá, lũ quét, các nhà chuyên môn có dự báo được sớm và ông có đề xuất gì để công tác dự báo sớm ngày càng đạt hiệu quả?
Viện trưởng Trịnh Hải Sơn: Với sự phát triển của khoa học công nghệ và thông tin như hiện nay, việc cảnh báo sớm về nguy cơ trượt lở đất đá, lũ quét là có thể được. Việc dự báo của cơ quan khí tượng trong đợt mưa bão yagi vừa rồi tương đối tốt, từ lượng mưa đến cấp độ bão, tuy nhiên để dự báo được trượt lở cần có những mô hình tương đối chi tiết cho từng điểm cụ thể.
Ở Việt Nam hiện nay, các công nghệ cảnh báo sớm đã và đang đạt được những thành tựu tại một số cơ quan, đơn vị, địa phương. Tuy nhiên, chúng ta vẫn còn lượng lớn công việc cần phải làm để lấp đầy những khoảng trống về công nghệ, trong đó có vấn đề truyền thông.
Bên cạnh đó, hiện nay, ở Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản, mới có bản đồ cảnh báo nguy cơ trượt lở tỷ lệ 1:50.000 cho các huyện miền núi ở 15 tỉnh, do vậy mong rằng trong thời gian tới có thể có những bản đồ cảnh báo nguy cơ trượt lở ở tỷ lệ lớn hơn cho những điểm cụ thể.
- Xin ông chia sẻ các giải pháp để phòng tránh và ứng phó với lũ quét, sạt lở đất tại các địa phương ở miền Bắc nói chung và các tỉnh như Cao Bằng, Yên Bái, Lào Cai… nói riêng?
Viện trưởng Trịnh Hải Sơn: Để cảnh báo chính xác sạt lở, lũ bùn đá, cần nhiều yếu tố. Trong đó, đầu vào quan trọng là lượng mưa trực tiếp tại khu vực đo đạc. Thông thường, một trạm đo mưa sẽ sử dụng chính xác và hiệu quả cho một vùng nhất định, nên khu vực càng xa trạm đo, độ chính xác càng giảm.
Thời gian tới cần đặt trọng tâm vào xây dựng bản đồ nguy cơ sạt lở, lũ quét chi tiết nhất có thể. Nếu không chi tiết được đến từng điểm nhỏ thì không thể gọi là cảnh báo, mà chỉ dừng ở việc dự báo. Hơn nữa, cần phải hướng tới cảnh báo sạt lở, lũ bùn đá theo thời gian thực cho các điểm có nguy sạt lở đất cao.
Dẫn chứng ở các nước như Nhật Bản, Hàn Quốc hay ở Đài Loan (Trung Quốc), sau khi có bản đồ cảnh báo nguy cơ, họ sẽ xây dựng những trạm quan trắc cố định tại những nơi được xác định có nguy cơ trượt lở, lũ bùn đá cao. Ngoài ra, còn các trạm di động đặt trên ô tô và di chuyển đến nơi có dự báo mưa lớn, bão lớn (theo từng trường hợp cụ thể) để thu thập dữ liệu, đưa ra cảnh báo và phương án xử lý phù hợp.
Bên cạnh đó, chính quyền cũng tổ chức diễn tập hàng năm để người dân làm quen và chủ động ứng phó khi có sự cố, để giảm thiểu thiệt hại về người và tài sản đến mức tối đa nhất có thể.
- Trân trọng cảm ơn ông!