Ô nhiễm cảng biển và giải pháp khắc phục
15:52 - 25/05/2024
Cảng biển là cửa ngõ quan trọng để hàng hóa và dịch vụ được vận chuyển bằng đường thủy trên toàn thế giới, đáp ứng nhu cầu thông thương, giao thương giữa các quốc gia. Thế nhưng, cảng biển cũng là một trong những tác nhân chính gây ô nhiễm môi trường, vì vậy rất cần những giải pháp để phòng, chống ô nhiễm cảng biển.
Nguy cơ hiện hữu
Theo các chuyên gia, trong hai thập kỷ gần đây, giao thông hàng hải toàn cầu đã không ngừng tăng trưởng. Vì vậy, chính phủ các nước, các tổ chức phi chính phủ và ngành công nghiệp hàng hải ngày càng quan tâm đến các vấn đề môi trường. Tình trạng xả rác và dầu thải bất hợp pháp ở các khu vực ven biển và đại dương đang trở thành vấn đề nổi cộm. Chất thải có dầu, rác thải, nhựa, nước thải và chất thải nguy hại sẽ có nhiều tác động tiêu cực đến môi trường biển, ngành thủy sản và du lịch, làm tăng lượng rác thải trên các đại dương.
Tại Việt Nam, việc gia tăng khối lượng hàng hóa qua cảng biển nói chung và hàng nguy hiểm nói riêng làm gia tăng nguy cơ gây ô nhiễm môi trường từ quá trình bốc xếp và lưu giữ tại các cảng biển.
Theo đó, các tàu có thể chuyển chất thải đến các cơ sở tiếp nhận ở một số cảng. Tuy nhiên, nhiều cảng đang phải đối mặt với một số thách thức nhằm cung cấp các dịch vụ thu gom rác thải từ tàu một cách hiệu quả. Nhiều cảng biển Việt Nam chưa được trang bị các phương tiện, hệ thống tiếp nhận và xử lý chất thải tàu biển. Hầu hết các doanh nghiệp cảng biển đều ký kết hợp đồng với một đơn vị thu gom và xử lý chất thải bên ngoài, mặc dù Chính phủ đã ban hành các quy định khuyến khích đầu tư, xây dựng các cơ sở tiếp nhận chất thải tại cảng.
Tại cảng biển cũng xuất hiện hiện tượng ô nhiễm dầu mỡ do các phương tiện để rò rỉ nước dằn tàu, nước buồng máy, các hoạt động nạo vét, duy tu tuyến luồng hàng hải gây ô nhiễm vùng nước cảng biển. Đặc biệt, tràn dầu đã ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến các hệ sinh thái. Theo kết quả nghiên cứu, khi sự cố ô nhiễm dầu xảy ra, các hệ sinh thái đã bị ảnh hưởng nghiêm trọng, đặc biệt là hệ sinh thái rừng ngập mặn, cỏ biển, vùng triều bãi cát, đầm phá và các rạn san hô.
Đa dạng hóa giải pháp trong tổng thể thống nhất
Theo đánh giá, ngành vận tải biển đang chiếm khoảng 3% tổng phát thải carbon toàn cầu, thải hơn 940 triệu tấn CO2 mỗi năm, đặc biệt chiếm 15% tổng lượng phát thải sulfur và 11% lượng phát thải hạt nhựa. Trong bối cảnh giao thương quốc tế ngày càng tăng, việc phát triển hệ sinh thái ngành Hàng hải bền vững và thân thiện với môi trường cần được các cảng biển chú trọng.
Cảng biển đem lại nguồn lợi lớn cho kinh tế nước ta, nhưng lại ẩn chứa nguy cơ gây ô nhiễm ảnh hưởng đến hệ sinh thái biển và con người. Để hạn chế ô nhiễm phải có biện pháp hợp lý về xây dựng và vận hành cảng biển nhằm giảm thiểu các tác động đến môi trường.
Theo đó, các nhà khai thác cảng, trong đó có hệ thống cảng biển khu vực Đông Nam bộ cần bảo đảm rằng quá trình phát triển, xây dựng, mở rộng đều được lập kế hoạch và quản lý cẩn thận, đáp ứng các quy định về cắt giảm khí thải, hạn chế thấp nhất mức độ ô nhiễm.
Chính phủ đặt mục tiêu giai đoạn từ 2016 - 2030 sẽ tập trung nghiên cứu cơ chế, chính sách đầu tư xây dựng, nâng cấp các hệ thống tiếp nhận chất thải tại các cảng biển; nghiên cứu, triển khai áp dụng các trang thiết bị kiểm tra, kiểm soát chất thải phát sinh từ tàu biển.
Phát triển cảng biển bền vững trở thành một trong những ưu tiên hàng đầu, một xu thế tất yếu. Theo đó, các cảng cần chủ động giảm thiểu ô nhiễm, phát triển cảng biển bền vững, thực hiện tiêu chí "cảng xanh", cảng thông minh. Từng thành phần của ngành Hàng hải và cảng biển cần được phát triển song hành theo hướng xanh hơn, thông minh hơn, bao gồm 5 yếu tố quan trọng: Cảng thông minh, tàu thông minh, dịch vụ logistics thông minh, công nghệ xanh và phát triển nguồn nhân lực hàng hải.
Các chuyên gia nhận định, các thiết bị chạy bằng năng lượng điện góp phần biến lượng phát thải trực tiếp thành lượng phát thải gián tiếp, giảm hơn 50% tổng lượng carbon phát thải. Bên cạnh những cảng đang xây dựng, không ít cảng đang vận hành cũng đã triển khai "xanh hóa", đầu tư cải tạo trang thiết bị, chuyển từ chạy dầu sang sử dụng điện hoặc các nhiên liệu sạch cho QC, RTG, xe nâng hàng, xe ô tô vận chuyển chạy trong cảng. Cùng với đó, xây dựng được những giải pháp giảm bụi trong không khí, giảm tiếng ồn như sử dụng sà lan để vận chuyển hàng thay vì ô tô...
Nắm bắt được xu hướng và chủ trương đó, nhiều doanh nghiệp đã chủ động trong xây dựng "cảng biển xanh", tiêu biểu là Tập đoàn Hateco. Với mục tiêu hướng tới xây dựng "cảng xanh", các trang thiết bị mà Tập đoàn đầu tư tại hai bến cảng số 5 và 6 thuộc cảng Lạch Huyện (Hải Phòng) sẽ sử dụng năng lượng điện và nhiên liệu giảm phát thải. Khi hoàn thành dự án, cảng sẽ có 9 cẩu bờ STS chạy điện có tầm với 23 hàng container; ít nhất 28 cẩu bãi RTG chạy điện; hệ thống cổng tự động (Auto-gate) đầu tiên tại Việt Nam.
Ngoài ra, cảng cũng sẽ được trang bị 4 cổng camera quang học cùng hệ thống kiểm đếm container tự động cho các cẩu bờ STS. Hệ thống này sẽ tự động nhận diện container bằng công nghệ nhận diện ký tự quang học (OCR) mới nhất, tự động chụp ảnh container để ghi nhận tình trạng. Cảng cũng đầu tư các ứng dụng tự động hóa như: Giám sát container lạnh tự động; số hóa quản lý thiết bị; các phần mềm quản lý vận hành khai thác cảng (TOS), cảng thông minh (Eport) và hẹn xe tải (VBS) hiện đại trên thế giới.
Theo ông Dương Thanh Khang, Phó Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Cảng tổng hợp Thị Vải, để xây dựng "cảng xanh", cảng thông minh cần chuyển đổi sử dụng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo trong khai thác, vận hành cảng và ứng dụng công nghệ thông tin để bảo vệ môi trường, bảo vệ vùng xanh. Do đó, cần phải có đội ngũ nhân sự chất lượng cao thích nghi với thời đại công nghệ số, đáp ứng yêu cầu phát triển cảng biển bền vững.
Ngoài yếu tố then chốt là nhân lực chất lượng cao, nhiều chuyên gia trong lĩnh vực hàng hải cũng nhấn mạnh việc cần thiết phải triển khai cơ chế hàng hải một cửa để giảm thiểu thời gian neo đậu tàu tại các bến cảng; vận dụng giải pháp điện bờ nhằm cung cấp năng lượng sạch cho các cảng biển; tập trung cho các mục tiêu phát triển bền vững hệ sinh thái số, xây dựng cảng thông minh cùng các giải pháp logistics xanh như: Vận tải xanh, kho xanh, cảng xanh, thể hiện trách nhiệm bảo vệ môi trường, phát triển kinh doanh bền vững...
Về phía cơ quan quản lý nhà nước, Cục Hàng hải Việt Nam đã ban hành tiêu chuẩn cơ sở về tiêu chí "cảng xanh" Việt Nam. Các tiêu chí được đưa ra để doanh nghiệp tham chiếu và áp dụng, đánh giá. Các cảng biển đầu tư mới hoặc đầu tư bổ sung có thể lựa chọn tại các giai đoạn khác nhau để áp dụng sao cho phù hợp với hiện trạng của cảng biển.
- Cảng biển cần tuân thủ đầy đủ các quy định về môi trường theo quy định và yêu cầu của Công ước quốc tế về: Ngăn ngừa ô nhiễm do tàu gây ra, sự cố liên quan đến chất gây hại; kiểm soát ô nhiễm do các chất độc hại chở bằng đường biển; ngăn ngừa ô nhiễm do nước thải từ tàu biển gây ra; tuân thủ sự kiểm soát của cơ quan quản lý nhà nước tại cảng biển.
- Cảng biển phải được trang bị phương tiện, thiết bị để thu gom, lưu giữ và xử lý chất thải phát sinh trong quá trình hoạt động hoặc thuê doanh nghiệp có chức năng tiếp nhận, thu gom, xử lý chất thải theo quy định của pháp luật.
- Cảng biển phải tuân thủ các quy định và quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật về ứng phó sự cố tràn dầu và ứng phó sự cố hóa chất độc hại.