Chứng chỉ khí thải CBAM: Cơ hội để bứt phá trong chuỗi giá trị mới
10:10 - 03/10/2023
Chuyên gia Nguyễn Hoa Cương cho rằng việc đáp ứng cơ chế điều chỉnh biên giới carbon-CBAM sẽ giúp doanh nghiệp Việt Nam không bị bỏ lại phía sau trong câu chuyện chuỗi giá trị mới và kinh tế Xanh.
Từ ngày 1/10/2023, 6 loại hàng hoá thải ra nhiều carbon nhất trong quá trình sản xuất được Liên minh châu Âu (EU) xác định là sắt thép, xi măng, phân bón, nhôm, điện và hydro sẽ được yêu cầu tuân thủ các nghĩa vụ báo cáo về tiêu chuẩn khí thải theo “Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon” (CBAM).
Từ năm 2026, nếu lượng khí thải vượt quá tiêu chuẩn đặt ra, nhà sản xuất sẽ phải chịu đánh “thuế carbon” - theo mức giá carbon hiện nay tại EU nếu muốn xuất khẩu vào thị trường này. Vậy, Việt Nam sẽ ảnh hưởng thế nào khi EU áp dụng Cơ chế CBAM? Doanh nghiệp Việt cần làm gì để đáp ứng các tiêu chuẩn ngày càng cao của thị trường EU (thị trường xuất khẩu lớn thứ 3, nhập khẩu lớn thứ 5 của Việt Nam)?
Xu thế không thể đảo ngược
Trước đây, có ý kiến cho rằng cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM) của EU có tác động trực tiếp đến 4 ngành công nghiệp chính của Việt Nam là sắt thép, xi măng, phân bón và nhôm. Đây không phải là những ngành xuất khẩu mạnh của nước ta sang EU, do đó, trong ngắn hạn, xuất khẩu tổng thể của Việt Nam sang EU sẽ không bị ảnh hưởng nhiều.
Tuy nhiên, theo tiến sỹ Nguyễn Văn Hội, Viện trưởng Viện nghiên cứu Chiến lược chính sách Công Thương (Bộ Công Thương) trong 8 tháng năm 2023 mặt hàng sắt thép xuất khẩu vào EU đã tăng gấp đôi. Theo đó, xuất khẩu mặt hàng này đạt 2,31 triệu tấn, chiếm trên 30% tổng lượng xuất khẩu sắt thép của Việt Nam.
Như vậy đã có những mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam phải tuân thủ các nghĩa vụ báo cáo về tiêu chuẩn khí thải theo CBAM của EU. Nếu không đảm bảo đúng các tiêu chí và tuân thủ đúng lộ trình của CBAM, các nhà sản xuất 6 loại hàng hóa kể trên muốn xuất khẩu vào EU sẽ phải mua “chứng chỉ khí thải” (hay còn gọi là áp “thuế carbon”) - từ đầu năm 2026. Ủy ban châu Âu sẽ đánh giá cách thức hoạt động của CBAM và xem xét khả năng mở rộng phạm vi sang nhiều sản phẩm và dịch vụ hơn.
Về lâu dài, phạm vi của CBAM có thể được mở rộng để bao gồm cả phát thải gián tiếp và các lĩnh vực khác cũng như các sản phẩm sử dụng nhiều carbon, chẳng hạn như sử dụng nhiều năng lượng cho hoạt động sản xuất-kinh doanh và tập trung vào các lĩnh vực cụ thể như: Năng lượng, khoáng sản; sản xuất và chế biến một số loại thực phẩm (đường, tinh bột, khoai tây, cà chua; sản xuất một số sản phẩm dệt may; hoá chất, xây dựng…
Làm rõ thêm về nội dung này, ông Nguyễn Hoa Cương, Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM) cho rằng việc đáp ứng các tiêu chuẩn cao ở thị trường EU hay xuất khẩu dệt may của Bangladesh tăng cao thời gian vừa qua là một trong những ví dụ điển hình cho thấy chuyển đổi Xanh là xu hướng chung của toàn thế giới.
Từ dẫn chứng này, theo ông Cương, việc chuyển đổi Xanh này chỉ là vấn đề thời gian, có thể sớm hay muộn một chút hoặc nhiều hay ít ngành… nhưng rõ ràng đây là xu hướng không thể đảo ngược. Do vậy, các doanh nghiệp của Việt Nam nên chủ động, thậm chí với ngành chưa phải áp thuế cũng nên có sự chuẩn bị, bởi việc áp thuế có thể nhanh hay chậm và yêu cầu về các sản phẩm đối với các thị trường cao cấp sẽ cao hơn rất nhiều.
“Chúng ta đều thấy rằng vấn đề này sẽ phát sinh rất nhiều chi phí cho doanh nghiệp. Nhưng ngược lại, sản phẩm đó khi đáp ứng được các tiêu chuẩn đưa ra thì sẽ có nhiều thuận lợi, khi được bán ở mức cao hơn, doanh thu cao hơn và điều quan trọng là chúng ta không bị bỏ lại phía sau trong câu chuyện chuỗi giá trị mới của ngày hôm nay,” chuyên gia này nhấn mạnh.
Đáp ứng tốt để đẩy mạnh xuất khẩu
Ngay từ đầu năm 2023, EU đã đưa ra “Thoả thuận Xanh châu Âu” với nhiều chiến lược được thực thi nhằm mục tiêu “làm cho EU trở nên trung lập với khí hậu vào năm 2050.” Mới đây, EU tiếp tục đưa ra cảnh báo về tình trạng gia tăng vi phạm an toàn thực phẩm trong các sản phẩm thủy sản và trái thanh long nhập khẩu vào thị trường này. Ngoài ra, EU không loại trừ khả năng hạn chế nhập khẩu các mặt hàng tương tự từ Việt Nam nếu không đảm bảo các điều kiện môi trường mà khối này đặt ra.
Từ các thực tế này, chuyên gia kinh tế, tiến sỹ Vũ Đình Ánh cho rằng các chứng chỉ carbon cũng như các biện pháp để bảo vệ môi trường, chống biến đổi khí hậu thì ở Việt Nam cũng đang trong quá trình tiến hành xây dựng và triển khai trong thời gian tới.
Như vậy, việc thực thi các yêu cầu hay quy định của thị trường EU không chỉ thúc đẩy từ phía các doanh nghiệp mà còn giúp cho Việt Nam trong vấn đề hình thành các khuôn khổ pháp lý, các cơ chế, chính sách cũng như sự hỗ trợ của các cơ quan chính quyền, cơ quan chức năng đối với cộng đồng doanh nghiệp thông qua các công cụ hữu hiệu, góp phần vào việc bảo vệ môi trường cũng như chống biến đổi khí hậu…
Tại Diễn đàn “Phát triển thị trường tín chỉ carbon - kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam” mới đây, nhóm nghiên cứu do Trường Đại học kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội chỉ ra rằng hàng năm Việt Nam có thể phải chịu thêm một khoản chi phí khá cao cho thuế phát thải carbon khi xuất khẩu vào thị trường EU. Vì vậy, để tăng sức cạnh tranh cho sản phẩm hàng hoá, đáp ứng nhu cầu của thị trường, Việt Nam cần tăng cường các giải pháp giảm phát thải, ở cả góc độ doanh nghiệp, người dân và cơ quan quản lý.
Từ đó, giới nghiên cứu khuyến nghị các nhà hoạch định chính sách cần có quy định chi tiết, cụ thể để hướng dẫn doanh nghiệp chủ động tiếp cận với “Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon” (CBAM ) và lộ trình tiếp cận CBAM của Việt Nam, đồng thời, xây dựng cơ chế định giá carbon và thị trường tín chỉ carbon của Việt Nam.
Ông Phạm Hồng Điệp, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty cổ phần Công nghiệp tàu thủy Shinec (chủ đầu tư Khu công nghiệp Nam Cầu Kiền) chia sẻ hiện nay Chính phủ đang chỉ đạo cho các bộ ngành xây dựng chiến lược, khung pháp lý (từ 2025-2028) thì Việt Nam phải xây dựng cơ sở pháp lý về thị trường tín chỉ carbon này…
“Việc có khung pháp lý về tín chỉ carbon nó sẽ làm cho phong trào phát triển doanh nghiệp xanh, làm cho các doanh nghiệp hứng khởi hơn trong việc phát triển kinh tế gắn chặt với bảo vệ môi trường…,” ông Điệp nêu ý kiến.
Trong khi đó, tiến sỹ Nguyễn Văn Hội, Viện trưởng Viện nghiên cứu Chiến lược Chính sách Công Thương (Bộ Công Thương) nhấn mạnh, trong trước mắt, Việt Nam cần chủ động đối thoại với EU để làm rõ các quy định về CBAM, các mặt hàng, lĩnh vực thuộc đối tượng áp dụng hoặc ưu đãi, miễn giảm. Hơn nữa, Nhà nước cần có chính sách ưu đãi, hỗ trợ về vốn, nâng cao năng lực giúp doanh nghiệp chuyển đổi sang công nghệ sản xuất xanh hơn.
“Về phía doanh nghiệp cũng cần chủ động đầu tư đổi mới công nghệ để tiết kiệm nguyên vật liệu đầu vào, giảm tiêu thụ năng lượng, giảm tối đa nguồn thải ra môi trường nếu muốn sản phẩm của mình được tiêu thụ ở các thị trường có tiêu chuẩn cao như EU,” ông Hội khuyến nghị../.